Bàn về các yếu tố cấu thành tội phạm

Bàn về các yếu tố cấu thành tội phạm
Hình minh họa.

(PLVN) Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Cấu thành tội phạm gồm 4 yếu tố là khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.

Luật sư Vi Văn Diện - Giám đốc Công ty Luật TNHH Thiên Minh cho biết, tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

Các chủ thể khi thực hiện hành vi được xác định là tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành. Và, hành vi chỉ được xác định là tội phạm khi có đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.

Trong đó, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Khách thể của tội phạm là căn cứ để xác định tội phạm nào là gây ra hậu quả, còn tội phạm nào là đe dọa gây ra hậu quả.

Trong khoa học hình sự, khách thể của tội phạm được chia thành ba loại là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.

Chủ thể của tội phạm là con người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi xâm phạm đến khách thể của tội phạm. Tuy nhiên, không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội phạm, mà chỉ những người hoặc pháp nhân thương mại được luật định mới là chủ thể của tội phạm.

Nếu là cá nhân thì phải đảm bảo độ tuổi, theo BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người từ đủ 14 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm.

Người từ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác.

Ngoài ra, chủ thể cũng phải có năng lực TNHS, nếu một người hoặc một pháp nhân thương mại không có năng lực TNHS thì cũng không phải là chủ thể của tội phạm.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của BLHS (tội Giết người, tội cướp tài sản…).

Trong một số trường hợp, chỉ một hoặc một số người mới là chủ thể của tội phạm, khoa học luật hình sự gọi là chủ thể đặc biệt như: Người thực hiện là người mẹ mới là chủ thể của tội giết con mới đẻ theo quy định tại Điều 124 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hoặc chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới là chủ thể của các tội phạm về chức vụ được quy định tại Chương XXIII của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với pháp nhân thương mại, chỉ pháp nhân thương mại nhân danh pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân, có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân mới là chủ thể của tội phạm và cũng chỉ chịu TNHS đối với một số tội phạm được quy định trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Yếu tố cấu thành thứ ba của tội phạm là mặt khách quan của tội phạm. Theo đó, mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của bên ngoài tội phạm.

Mặt khách quan bao gồm: hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả và các yếu tố khác như thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng để thực hiện tội phạm.

Trong các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm thì hành vi nguy hiểm cho xã hội là yếu tố quan trọng nhất. Nguyên nhân là vì, xét về mặt lí luận, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, còn các yếu tố khác chỉ có ý nghĩa bổ sung làm ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nếu thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra không đáng kể thì không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là hành vi phạm tội. Đồng thời, dù là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng nếu hành vi đó không được quy định trong BLHS thì cũng không phải là hành vi phạm tội.

Cuối cùng, mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại khi thực hiện hành vi phạm tội hay còn gọi là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội, trong đó lỗi là yếu tố quan trọng nhất.

Lỗi là thái độ tâm lý của một người hoặc của một pháp nhân thương mại đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

Lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người hoặc pháp nhân thương mại có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị truy cứu TNHS do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Bên cạnh đó, cố ý phạm tội là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Vô ý phạm tội là người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Cũng theo Luật sư Diện, khoa học luật hình sự còn chia cấu thành tội phạm ra hai loại: cấu thành hình thức và cấu thành vật chất.

Cấu thành hình thức là cấu thành mà người phạm tội chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa hết hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành. Ví dụ: Tội cướp tài sản, điều luật quy định hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. Nếu người phạm tội chỉ cần thực hiện một trong các hành vi quy định trong điều luật nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản, thì hành vi phạm tội được coi là tội phạm đã hoàn thành. Khoa học luật hình sự còn gọi cấu thành hình thức là cấu thành “cắt xén”.

Cấu thành vật chất là cấu thành mà người phạm tội đã thực hiện hết hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành. Ví dụ: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, điều luật quy định “bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác”. Nếu người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi quy định trong điều luật, thì hành vi phạm tội được coi là phạm tội chưa đạt.

“Như vậy, cấu thành tội phạm là một khái niệm khoa học phản ánh các dấu hiệu đặc trưng, nếu thiếu nó thì không phải là tội phạm, do đó, có thể nói: cấu thành tội phạm chính là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự” - Luật sư Diện nhấn mạnh.

Gia Hải - Hồng Thương