Bàn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông
(PLVN) Thời gian qua, đã xảy ra không ít các vụ tai nạn giao thông (TNGT) đặc biệt nghiêm trọng, gây ra thiệt hại lớn về người và tài sản. Đồng thời, việc hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các vụ TNGT cũng không phải là vấn đề đơn giản và gây nhiều tranh cãi.
Luật sư Nguyễn Thị Trang - Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, theo quy định tại Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) thì phương tiện giao thông được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ. Do đó, khi xảy ra TNGT, các thiệt hại liên quan đến các phương tiện cơ giới sẽ chịu sự chi phối của quy định về trách nhiệm đối với nguồn nguy hiểm cao độ.
Cụ thể, chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người sử dụng phương tiện sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) khi xảy ra tai nạn, ngay cả khi họ không có lỗi trực tiếp. Tuy nhiên, có hai trường hợp ngoại lệ khi trách nhiệm bồi thường không được áp dụng.
Thứ nhất, nếu thiệt hại xảy ra do lỗi của chính người bị thiệt hại, ví dụ khi họ tự gây ra tai nạn hoặc có hành vi vi phạm quy định giao thông, họ sẽ không được yêu cầu bồi thường từ phía chủ sở hữu hoặc người sử dụng phương tiện.
Thứ hai, trong trường hợp thiệt hại xảy ra do các yếu tố bất khả kháng hoặc trong tình thế cấp thiết, ví dụ như thiên tai không thể kiểm soát hoặc tình huống khẩn cấp buộc phải hành động, người điều khiển phương tiện cũng sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường.
Trách nhiệm BTTH của người điều khiển phương tiện giao thông trong các vụ tai nạn là yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật giao thông, bảo đảm rằng các bên bị thiệt hại nhận được sự bồi thường hợp lý và công bằng cho tổn thất của họ.
Tại Điều 584 BLDS 2015 có quy định, người nào gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản, quyền lợi hợp pháp khác của người khác phải bồi thường. Trong các vụ TNGT, người gây thiệt hại phải bồi thường các tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng và một phần tinh thần cho người bị thiệt hại.
Căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì việc BTTH là phải BTTH thực tế, tức là phải bồi thường toàn bộ thiệt hại mà người bị thiệt hại đã thực sự gánh chịu. Việc BTTH phải được thực hiện kịp thời, không gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người bị thiệt hại.
Người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường khi có lỗi và người gây thiệt hại phải bồi thường theo khả năng kinh tế của mình, điều này được hiểu rằng người chịu trách nhiệm BTTH có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Đặc biệt, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại sẽ có quyền yêu cầu thay đổi mức bồi thường. Bên có lỗi trong việc gây tai nạn sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Nguyên tắc BTTH trong TNGT sẽ được áp dụng đúng với nguyên tắc chung trong BTTH ngoài hợp đồng, đồng thời phản ánh đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Cũng theo Luật sư Trang, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ dựa trên ba yếu tố chính: thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm pháp luật và mối quan hệ nhân quả.
Các vụ TNGT gây ra thiệt hại nặng nề về người và tài sản, có thể hiểu thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ. Đây có thể là việc mất mát hoặc hỏng hóc của tài sản và thiệt hại này có thể được tính toán thành một khoản tiền cụ thể. Hoặc thiệt hại về sức khỏe và tinh thần bao gồm các tổn thất liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín và nhân phẩm.
Những tổn thất này không chỉ ảnh hưởng đến khía cạnh cảm xúc như đau đớn, buồn phiền mà còn ảnh hưởng đến mặt xã hội và tâm lý của người bị thiệt hại. Đối với những tổn thất này, cần phải có một khoản tiền bồi thường để bù đắp cho những tổn thất mà họ phải chịu.
Trong các vụ TNGT này cần phải có hành vi vi phạm pháp luật, có thể hiểu đơn giản chính là những hành động mà một cá nhân thực hiện mà vi phạm các quy định và luật lệ được đặt ra bởi hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả tai nạn cũng cần được xác định rõ ràng để xác định trách nhiệm bồi thường một cách công bằng và chính xác.
Về phạm vi BTTH trong TNGT, hay nói cách khác là các khoản bồi thường sẽ “được chấp nhận” chính là các khoản chi phí cần thiết để phục hồi sức khỏe và hỗ trợ cho người bị hại như chi phí y tế bao gồm cả chi phí điều trị, vận chuyển người bị thiệt hại về sức khỏe đến cơ sở y tế, thuốc thang và các dịch vụ y tế khác; thu nhập thực tế bị mất bao gồm cả thu nhập từ công việc và các nguồn thu nhập khác mà người bị hại không thể kiếm được do tai nạn; chi phí chăm sóc cũng được xem xét, bao gồm cả chi phí và thu nhập thực tế mà người chăm sóc phải mất trong quá trình điều trị.
Đồng thời, người bị hại cũng sẽ được bồi thường tổn thất tinh thần, với mức độ bồi thường được xác định theo thỏa thuận hoặc quy định tối đa không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Phạm vi bồi thường này nhằm bảo đảm quyền lợi tối đa cho người bị hại sau TNGT.
Ngoài ra, mức độ BTTH sẽ còn tùy thuộc vào hậu quả. Nếu hậu quả chỉ là những thiệt hại đối với tài sản, người gây ra tai nạn sẽ phải bồi thường cho tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng, cũng như các lợi ích gắn liền với việc sử dụng hoặc khai thác tài sản bị ảnh hưởng. Cụ thể, người có trách nhiệm bồi thường sẽ cần bồi thường giá trị thiệt hại bằng cách sửa chữa tài sản, đền bù giá trị phần thiệt hại hoặc thay thế một tài sản khác có giá trị tương đương. Phương thức bồi thường có thể thỏa thuận hoặc quy định theo luật.
Tuy nhiên, đối với những hậu quả mà có thiệt hại về sức khỏe, người gây tai nạn thì mức bồi thường sẽ phụ thuộc vào việc chi trả các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng của người bị thiệt hại. Đây có thể là các chi phí y tế được tính dựa trên biên lai thu tiền viện phí, hóa đơn thuốc điều trị và các chi phí liên quan.
Nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần người thường xuyên chăm sóc, thì người gây tai nạn cũng phải chi trả các chi phí liên quan bao gồm thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại. Trường hợp thu nhập thực tế không ổn định và không thể xác định được, áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại.
Cuối cùng, tại Điều 593 BLDS 2015 cũng có quy định về thời hạn BTTH nhằm bảo đảm quyền lợi của người bị thiệt hại và người thụ hưởng bồi thường.