Cần quy định đầy đủ hơn các khía cạnh pháp lý của quan hệ chung sống như vợ chồng

Cần quy định đầy đủ hơn các khía cạnh pháp lý của quan hệ chung sống như vợ chồng
Các đại biểu tham dự Hội thảo “Luật HN&GĐ qua 10 năm thi hành và đề xuất giải pháp hoàn thiện” chụp ảnh lưu niệm. (Ảnh: BTC)

(PLVN) Chung sống như vợ chồng là một hiện tượng xã hội phản ánh việc hai cá nhân tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay ở Việt Nam, qua một số nghiên cứu, khảo sát có thể thấy số lượng các cặp đôi chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn khá lớn, với những dạng thức khác nhau và có xu hướng gia tăng.

Cần thống nhất cách hiểu về trường hợp “chung sống như vợ chồng”

Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) 2014 dành 03 điều luật quy định trực tiếp về “giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” (Điều 14, Điều 15 và Điều 16). Ngoài ra, Luật còn có một số quy định về quan hệ chung sống như vợ chồng tại khoản 7 Điều 3, khoản 2 Điều 5.

Đây là một sự thay đổi đáng chú ý trong điều chỉnh pháp luật ở Việt Nam đối với các quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. Trước đó, Luật HN&GĐ 2000 cũng như các Luật HN&GĐ khác hầu như không có quy định về quan hệ chung sống như vợ chồng, ngoại trừ quy định thừa nhận giá trị pháp lý của “hôn nhân thực tế” hay quan hệ chung sống vợ chồng đã bắt đầu xác lập trước ngày 03/01/1987 hoặc trong khoảng thời gian theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ.

Trao đổi với Báo PLVN bên lề Hội thảo khoa học “Luật HN&GĐ qua 10 năm thi hành và đề xuất giải pháp hoàn thiện” do Khoa Pháp luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức mới đây, TS Bùi Minh Hồng, Trưởng Bộ môn Luật HN&GĐ cho biết, việc bổ sung quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước hết nhằm xác định hậu quả pháp lý của việc không đăng ký, qua đó, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong quan hệ chung sống như vợ chồng. Sâu xa hơn, những quy định đó của Luật gợi ra cho chúng ta suy nghĩ về một “quy chế pháp lý” của những cặp đôi chung sống như vợ chồng bên cạnh quy chế của những cặp đôi có đăng ký kết hôn (vợ chồng).

Tuy nhiên, theo TS Bùi Minh Hồng, khoản 7 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra quy định giải thích: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng” bị đánh giá là chưa rõ ràng, vì trong một số quy định cụ thể tại các điều từ 14 đến 16 chỉ nhằm “giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”. Có hai cách hiểu về chung sống như vợ chồng: (1) đó là trường hợp chung sống giữa hai người khác giới tính hoặc cùng giới tính; (2) đó chỉ là trường hợp chung sống giữa hai người khác giới tính.

Khoản 7 Điều 3 sử dụng thuật ngữ chỉ giới tính “nam, nữ” và đối chiếu với quy định tại các Điều từ 14 đến 16 Luật HN&GĐ 2014 thì cần hiểu tinh thần của khoản 7 Điều 3, với tính chất là quy định giải thích các thuật ngữ sử dụng trong Luật, theo hướng đó là quan hệ chung sống giữa hai người khác giới tính. Theo đó, được coi là chung sống như vợ chồng phải có các dấu hiệu sau: Về chủ quan, hai bên nam, nữ trong quan hệ chung sống coi nhau là vợ, chồng của mình; về khách quan, hai bên nam, nữ có những hành vi tổ chức cuộc sống chung theo nghĩa là vợ chồng của nhau, như đóng góp tài sản, công sức, cùng nhau chia sẻ các công việc trong đời sống chung - TS Bùi Minh Hồng chia sẻ.

Hậu quả pháp lý về nhân thân và tài sản

Về hậu quả pháp lý của trường hợp chung sống như vợ chồng, TS Bùi Minh Hồng nêu rõ, Luật xác định một vấn đề mang tính nguyên tắc theo hướng đề cao yêu cầu đăng ký kết hôn, đó là các bên trong quan hệ chung sống như vợ chồng không có quyền, nghĩa vụ của vợ chồng; trường hợp sau đó các bên đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng chỉ phát sinh từ ngày đăng ký.

Về tài sản và nghĩa vụ, Luật HN&GĐ quy định theo hướng coi đây là một quan hệ dân sự và giải quyết theo các quy định của Bộ luật Dân sự. Nếu có thỏa thuận thì giải quyết theo thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định chung của Bộ luật Dân sự, từ việc xác định tài sản chung và tài sản riêng thực hiện trên cơ sở chứng minh của các bên (không áp dụng nguyên tắc suy đoán tài sản chung) đến việc phân chia tài sản chung (tài sản chung là tài sản chung theo phần và giải quyết trên cơ sở chứng minh về công sức đóng góp của các bên).

Luật HN&GĐ 2014 cũng đã có quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và con: “Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập” (khoản 2 Điều 16).

Theo TS Bùi Minh Hồng, đây là quy định nhằm bảo đảm công bằng cho các bên, nhất là người phụ nữ và con và mang nội dung gần giống với quy định về giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn: “lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Nhưng quy định này chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể nên còn có những cách hiểu khác nhau về đánh giá “công việc nội trợ và công việc khác để duy trì đời sống chung”: (1) tính như công sức của người tạo ra thu nhập (như trong quan hệ vợ chồng) hay (2) tính theo giá trị của công việc được trả công (lao động giúp việc trong gia đình). Đây là vấn đề cần được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn để có sự thống nhất trong thực tiễn xét xử.

Đối với quan hệ giữa cha mẹ và con, Luật quy định: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con” (Điều 15). Như vậy, quyền của con không bị ảnh hưởng bởi tính chất của quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn của cha mẹ, được bảo đảm như con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, vấn đề xác định cha, mẹ, con sẽ được giải quyết theo những quy định về xác định cha, mẹ, con mà cha, mẹ không phải là vợ, chồng, tức là không áp dụng quy định suy đoán về con chung mà phải dựa vào những chứng cứ về quan hệ cha - con, mẹ - con và theo thủ tục đăng ký nhận con tại cơ quan đăng ký hộ tịch hoặc thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án.

 TS Bùi Minh Hồng - Trưởng Bộ môn Luật HN&GĐ, Khoa Pháp luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. (Ảnh: NVCC)
TS Bùi Minh Hồng - Trưởng Bộ môn Luật HN&GĐ, Khoa Pháp luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. (Ảnh: NVCC)

Nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Theo TS Bùi Minh Hồng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn như: yếu tố tâm lý và tập quán về HN&GĐ; do hiểu biết pháp luật chưa đầy đủ nên một số người chưa thấy được ý nghĩa của việc đăng ký kết hôn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự đòi hỏi về tự do cá nhân ngày càng lớn, nhiều cặp đôi lựa chọn giải pháp chung sống như vợ chồng, đến thời gian thích hợp mới đăng ký kết hôn hoặc không cần đăng ký. Việc không đăng ký kết hôn sẽ giúp các bên dễ dàng chấm dứt quan hệ chung sống.

Nói về giải pháp chung về pháp lý đối với quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, TS Bùi Minh Hồng cho rằng, về tổng thể, pháp luật về HN&GĐ cần có quy định đầy đủ hơn về các quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn và coi đây là một “quy chế pháp lý” dành cho những cặp đôi chung sống như vợ chồng.

Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định về “giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” và quy định cấm chung sống như vợ chồng trong một số trường hợp. Theo TS Bùi Minh Hồng, thực trạng pháp luật hiện hành nảy sinh hai vấn đề.

Thứ nhất, pháp luật chưa bao quát được các trường hợp chung sống như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính, trong đó, các bên coi nhau là vợ, chồng và thực hiện trách nhiệm đối với nhau, đối với con riêng của một bên cũng như có trách nhiệm đối với gia đình của hai bên.

Thứ hai, pháp luật không quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ chung sống như vợ chồng mà chỉ quy định về “giải quyết hậu quả” của việc chung sống đó. Về cơ bản, Luật HN&GĐ coi đây là một quan hệ dân sự và giải quyết theo cách đối với quan hệ dân sự, ngoại trừ quy định về bảo vệ người phụ nữ và con tại khoản 2 Điều 16. Cách tiếp cận này chưa phù hợp với thực tiễn chung sống như vợ chồng, trong đó các bên thực hiện các hành vi, trách nhiệm như chủ thể của quan hệ HN&GĐ.

Thêm nữa, cần bổ sung quy định về chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Luật HN&GĐ 2014 cũng như các văn bản quy định chi tiết thi hành không có quy định rõ về trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc xác định hành vi vi phạm và xử lý về dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ HN&GĐ cũng như đạo đức xã hội.

Về mặt dân sự, cần có những quy định về cơ chế giải quyết, như: người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật vì theo lẽ công bằng, không thể đồng nhất hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật với hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng không trái pháp luật - TS Bùi Minh Hồng khẳng định. 

Thái Bình