Đề xuất cơ chế cho Đồng Nai trong tái cấu trúc vùng mới
(PLVN) - Sân bay Long Thành đang mở ra động lực tăng trưởng mới cho Đồng Nai và toàn vùng Đông Nam Bộ, đặt ra yêu cầu cấp thiết về một cơ chế đặc thù nhằm khai thác tối đa nội lực, củng cố liên kết vùng và thúc đẩy phát triển hạ tầng, kinh tế, nhân lực trong giai đoạn cấu trúc vùng mới.
Khai mở tiềm năng vùng
Với quy mô của một cảng hàng không quốc tế hiện đại, sân bay Long Thành góp phần định hình diện mạo mới cho Đồng Nai, đồng thời trở thành “đường băng” giúp toàn vùng Đông Nam Bộ hướng tới giai đoạn phát triển cao hơn. Tác động lan tỏa từ đại dự án này được kỳ vọng thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng quốc gia. Đó cũng là lý do sáng 13/11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã trực tiếp thị sát các hạng mục trọng điểm. Chất lượng và hiệu quả khai thác sân bay Long Thành sẽ là lời chào, lời mời của Việt Nam gửi đến các đối tác và nhà đầu tư quốc tế.

Trong bối cảnh đó, Đồng Nai cần chuẩn bị kỹ lưỡng, đồng thời ở cấp độ liên kết vùng và quốc gia, cần thêm các “đòn bẩy” đột phá về thể chế, hạ tầng và nhân lực. Hiện Đồng Nai là địa phương có nội lực mạnh, quy mô dân số và kinh tế đứng thứ tư cả nước chỉ sau TPHCM, Hà Nội và Hải Phòng; vượt Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế. Sau sắp xếp địa giới, dự kiến năm 2025, Đồng Nai tiếp tục giữ vị trí thứ tư về thu ngân sách, khẳng định vai trò trung tâm công nghiệp và điểm đến đầu tư hấp dẫn.
Tuy nhiên, khi Hà Nội có Luật Thủ đô, TPHCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An… có cơ chế đặc thù, thì Đồng Nai vẫn đang “mặc chiếc áo cũ”. Sau khi Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu hợp nhất vào TPHCM và được áp dụng chính sách theo Nghị quyết 98/2023/QH15, khoảng cách phát triển trong vùng càng bộc lộ, đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới thể chế để thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Khi Đông Nam Bộ chỉ còn 3 tỉnh, hình thành tam giác phát triển Tây Ninh - TPHCM - Đồng Nai, đây là thời điểm cần trao cho Đồng Nai “chìa khóa đặc thù” mở cơ chế về đầu tư, đất đai, hạ tầng, nhân lực để thu hút nhà đầu tư chiến lược. Trong liên kết với TPHCM, trục TPHCM - Bình Dương cũ - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu cũ từng dẫn đầu cả nước về tăng trưởng. Nay các dự án như kéo dài metro Suối Tiên - Biên Hòa, các cầu và tuyến đường kết nối hai địa phương đang triển khai, càng cần cơ chế tương xứng.

TPHCM đang ưu tiên giáo dục, y tế, Trung tâm Tài chính quốc tế và Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc tế. Do đó, thành phố cần mở rộng hợp tác, khuếch tán thị trường với Đồng Nai trong dịch vụ, tài chính, nhân lực. Từ cửa ngõ Tân Sơn Nhất đến cửa ngõ Long Thành sẽ là trục giao thông, logistics, đô thị liên hoàn. Khi TPHCM sửa đổi Nghị quyết 98, Đồng Nai càng cần một nghị quyết đặc thù, tiệm cận chính sách ưu việt để mở không gian phát triển chung cho toàn vùng Đông Nam Bộ.
Liên kết vùng chưa hiệu quả
Đông Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm hàng đầu cả nước và là hình mẫu của đổi mới, hội nhập. Tuy nhiên, quá trình sắp xếp địa giới hành chính vừa mở ra cơ hội bứt phá, vừa tạo áp lực lớn về hạ tầng, liên kết và nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong những năm qua, vùng Đông Nam Bộ đạt nhiều thành tựu ấn tượng, đặc biệt là TPHCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Tuy vậy, một số ngành sử dụng lao động trình độ hạn chế, trong khi chuyển dịch sang công nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn vẫn chậm.
PGS.TS Phan Thị Tố Oanh (Trường ĐHCN TP Hồ Chí Minh) cho rằng các địa phương trong vùng chưa khai thác đầy đủ thế mạnh chung. Mỗi tỉnh có đặc thù riêng, nhưng liên kết và hợp tác chưa chặt chẽ, các chuỗi giá trị, năng lực cạnh tranh sản phẩm, các ngành công nghiệp giá trị cao chưa được phát triển đồng bộ.

Vùng Đông Nam Bộ tập trung nhiều khu công nghiệp, cảng biển quốc tế, trung tâm tài chính lớn là “bộ mặt” của kinh tế Việt Nam khi hội nhập quốc tế. Hiện nay vùng đang đối diện thách thức lớn như: Các vấn đề về môi trường, thiếu nhân lực chất lượng cao, thay đổi cơ cấu sản xuất, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ; cạnh tranh ngày càng gay gắt và tác động của biến đổi khí hậu.
Để khu vực tăng trưởng ổn định, vùng cần điều chỉnh chính sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao năng suất lao động, mở rộng công nghệ cao, sản xuất sạch và các dịch vụ mũi nhọn.
Ưu tiên hàng đầu là đầu tư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông liên vùng. Các địa phương cần giải quyết nút thắt kết nối bằng việc mở rộng, nâng cấp tuyến đường bộ trực tiếp kết nối mạng lưới quốc gia; phát triển mạnh giao thông đường thủy nội địa và các cảng thủy nội địa nhằm giảm tải cho đường bộ.
Chính phủ cần cơ chế điều phối vùng đủ mạnh. Các địa phương phải chủ động huy động đa dạng nguồn lực, kết hợp vốn Trung ương và địa phương, tận dụng vốn ODA và xã hội hóa để triển khai dự án trọng điểm mang tính liên kết vùng.
Song song đó, phát triển vùng phải gắn với thích ứng biến đổi khí hậu, sử dụng tài nguyên bền vững, nâng cao chất lượng sống cho người dân, ưu tiên công nghệ xanh, năng lượng tái tạo và mô hình sản xuất sạch.
PGS.TS Phan Thị Tố Oanh nhấn mạnh, không địa phương nào có thể phát triển độc lập, vùng Đông Nam Bộ cần liên kết chặt chẽ để hình thành hệ sinh thái kinh tế mạnh, có sức lan tỏa, không chỉ kinh tế mà cả văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và an sinh xã hội. Đây là nền tảng để thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng sống và củng cố vị thế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trên bản đồ quốc gia và quốc tế.