Một số vướng mắc trong xét xử vụ án về tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản' và giải pháp đề xuất

Một số vướng mắc trong xét xử vụ án về tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản' và giải  pháp đề xuất
Ảnh minh họa

(PLVN) - Tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là một trong những tội phạm phổ biến trong thực tiễn. Tuy nhiên, quá trình xét xử các vụ án liên quan đến tội danh này hiện nay vẫn còn nảy sinh nhiều vướng mắc. Các vấn đề nổi bật là: định tội danh chưa chính xác, chưa thống nhất trong việc xác định số tiền khắc phục hậu quả trước khi khởi tố, và khó khăn khi xử lý tài sản đã được chuyển cho người thứ ba.

Định tội danh chưa chính xác

Qua thực tiễn giải quyết những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho thấy, việc định tội danh không chính xác do có sự nhầm lẫn giữa các tội trong nhóm tội chiếm đoạt tài sản. Trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai, không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để lọt tội phạm, xử nhẹ hoặc nặng hơn so với tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc xử lý hình sự thiếu chính xác như thế sẽ xâm phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

Ví dụ: Từ đầu năm 2022 đến tháng 2/2024, Nguyễn Huy Vũ từng được bà Vân Anh nhờ thu tiền thuê nhà trọ. Sau khi bị chấm dứt hợp đồng, Vũ vẫn giả danh bà Vân Anh để tiếp tục thu tiền từ người thuê nhà. Tổng cộng, Vũ đã chiếm đoạt 10 triệu đồng và bị bắt quả tang.

Viện Kiểm sát đề nghị truy tố Vũ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, song bản án sơ thẩm lại xác định bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Theo quan điểm chuyên môn, hành vi gian dối của Vũ thỏa mãn cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Ở ví dụ trên, vấn đề có thể gây tranh luận là việc xử lý số tiền bị cáo đã khắc phục cho bị hại trước khi khởi tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Số tiền này được trừ vào số tiền bị khởi tố. Quan điểm thứ hai lại nhận định: Số tiền khắc phục chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ (Điểm b, Khoản 1, Điều 51 BLHS), không trừ vào số tiền chiếm đoạt để khởi tố.

Theo quan điểm của chúng tôi, để chiếm đoạt tài sản, Vũ đã có hành vi gian dối, đưa thông tin đã được bà Vân Anh ủy quyền thu tiền thuê nhà của bà Hoa (nhưng thực tế không có việc ủy quyền). Vì tin tưởng rằng Vũ đã được bà Anh ủy quyền thu tiền nên bà Hoa đã đưa tiền cho Vũ và Vũ chiếm đoạt số tiền này. Do đó, hành vi của Vũ thỏa mãn cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Thực tế, khi xác định số tiền khắc phục hậu quả trước khi khởi tố giữa các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng số tiền bị cáo khắc phục cho bị hại trước giai đoạn khởi tố thì sẽ được trừ vào số tiền bị khởi tố; quan điểm khác lại cho rằng số tiền bị cáo khắc phục cho bị hại trước giai đoạn khởi tố sẽ không được trừ vào số tiền bị khởi tố và số tiền khắc phục đó được xem là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS.

Một ví dụ cùng chủ đề: Vụ án Đàm Văn Th phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS do Tòa án quân sự Quân khu X xét xử cũng có nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong vụ án này, trước khi khởi tố vụ án, bị cáo đã trả cho 2 người bị hại số tiền 120.000.000 đồng sau khi chiếm đoạt 1.379.000.000 đồng. Quan điểm của VKS xác định bị cáo chỉ chiếm đoạt 1.259.000.000 đồng, còn HĐXX sơ thẩm xác định bị cáo chiếm đoạt 1.379.000.000 đồng.

Việc nhận định số tiền chiếm đoạt trước giai đoạn khởi tố giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là do việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn của cơ quan cấp trên, dẫn đến sự lúng túng, khó khăn trong công tác giải quyết án.

Vướng mắc khi xử lý tài sản đã chuyển cho người thứ ba

Trong nhiều vụ án, sau khi chiếm đoạt được tài sản, bị cáo dùng số tiền đó trả nợ cho người thứ ba. Những người này không biết đó là tiền phạm tội mà có và đã tiêu dùng, chi trả hợp pháp. Vấn đề đặt ra: có buộc họ phải nộp lại để hoàn trả cho bị hại hay không?

Trong vụ án việc xác định số tiền, tài sản sau khi người phạm tội chiếm đoạt được đã trả nợ cho người thứ ba (họ không biết số tiền họ được nhận từ bị cáo là tiền do phạm tội mà có), trong đó có khoản trả tiền mặt, có khoản chuyển trả qua tài khoản và người thứ ba đã sử dụng hết số tiền đó, quá trình điều tra không thu hồi được không còn là vật chứng của vụ án thì giải quyết như thế nào? Tôn trọng quan hệ dân sự giữa người chiếm đoạt số tiền do phạm tội mà có với quan hệ của người thứ ba hay buộc người thứ ba phải nộp lại số tiền mà người đã chiếm đoạt thanh toán cho họ và xác định tư cách tham gia tố tụng của những người này như thế nào? Đây là vấn đề mà thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự hiện nay đang có nhận thức và áp dụng rất khác nhau. 

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bị cáo chiếm đoạt toàn bộ số tiền nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Người thứ batham gia phiên tòa với tư cách là người làm chứng trong vụ án. Do vậy, Tòa án phải buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Mặc dù số tiền chiếm đoạt phải do bị cáo là người có trách nhiệm bồi thường cho bị hại nhưng nghĩa vụ bồi thường này phải được đối trừ với số tiền mà bị cáo đã thanh toán cho các chủ nợ là người thứ ba. Vì, số tiền mà các chủ nợ nhận được từ bị cáo đã được xác định là tiền do phạm tội mà có; mặc dù các chủ nợ không biết số tiền họ nhận được từ bị cáo là tiền bất hợp pháp nhưng việc trả nợ của bị cáo cho họ là giao dịch vô hiệu nên quan hệ này không được pháp luật tôn trọng bảo vệ. Số tiền mà họ nhận được là của bị hại nên họ phải có trách nhiệm nộp lại số tiền trên để bồi thường cho bị hại. Do vậy, trong vụ án phải xác định người thứ ba là Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan đến vụ án  phải nộp lại số tiền bị cáo đã trả nợ để trả cho bịhại.

Từ những vướng mắc nêu trên, cần triển khai một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, cần có sự giải thích rõ ràng trong các văn bản pháp luật về ranh giới giữa tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác cũng sử dụng thủ đoạn gian dối. Dấu hiệu đặc trưng của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào dấu hiệu “gian dối” cũng được nhận thức thống nhất. Có nhiều trường hợp hành vi gian dối đã được Bộ luật Hình sự quy định thành tội độc lập, ví dụ: hành vi cân, đo, đong, đếm gian dối nhằm gây thiệt hại cho khách hàng (Điều 192 BLHS); hành vi làm, buôn bán hàng giả để lừa người tiêu dùng (các Điều 193, 194, 195 BLHS); hoặc hành vi dùng mưu mẹo trong đánh bạc (Điều 248 BLHS). Vì vậy, cần có hướng dẫn pháp luật chi tiết để bảo đảm sự thống nhất trong xét xử.

Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất về việc xác định số tiền khắc phục hậu quả trước khi khởi tố. Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có cách hiểu đồng nhất, dẫn đến khó khăn trong thực tiễn. Đề xuất theo hướng: chấp nhận số tiền bị cáo đã tự nguyện trả lại, bồi thường, khắc phục trước khi bị khởi tố, từ đó chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với phần tài sản chiếm đoạt còn lại. Nếu toàn bộ số tiền đã được khắc phục trước khi khởi tố thì không cần truy cứu trách nhiệm hình sự.

Thứ ba, cần có sự thống nhất trong việc xử lý tài sản liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi đã được chuyển cho người thứ ba. Trường hợp bị cáo dùng tài sản chiếm đoạt để trả nợ cho chủ nợ hợp pháp mà người này không biết đó là tài sản phạm tội thì giao dịch cần được pháp luật công nhận. Do đó, họ không bị coi là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà chỉ tham gia vụ án với tư cách nhân chứng. Tòa án vẫn phải buộc bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Tuy nhiên, đây mới là quan điểm cá nhân, cần có văn bản hướng dẫn thống nhất để bảo đảm áp dụng đồng bộ.

Vũ Tiến Thọ - Toà án quân sự Thủ đô Hà Nội