Những người gìn giữ 'nếp nhà' của văn hoá Việt

Những người gìn giữ 'nếp nhà' của văn hoá Việt
Ông Hà Hữu Thể nâng niu ngôi nhà cổ hơn 300 tuổi của mình như một báu vật mà ông cha để lại. (Ảnh: Tuấn Minh)

(PLVN) - Trong thời đại hiện nay, khi đô thị hóa, công nghệ, mạng xã hội đang làm phai nhạt nhiều giá trị truyền thống, thì đâu đó, vẫn có những con người âm thầm giữ gìn nếp nhà bằng chính cách sống, nghề nghiệp, tấm lòng và niềm tin của họ.

Họ không phải là những nhà nghiên cứu văn hóa lớn, cũng chẳng luôn đứng trên sân khấu, mà có khi chỉ là một cao niên trong làng cổ, một nghệ nhân gìn giữ nghề, một gia đình bốn thế hệ cùng gìn giữ lễ giáo, hay một lớp học nhỏ vang tiếng ca dao, dân ca giữa phố thị. Họ chính là những người gìn giữ nếp nhà của văn hóa Việt - những hạt nhân âm thầm “giữ lửa” cho bản sắc dân tộc.

Nếp nhà - hồn văn hóa Việt

Ở làng cổ Đường Lâm (Hà Nội), nơi được coi là “bảo tàng sống” của kiến trúc và văn hóa Việt, ông Hà Hữu Thể sở hữu căn nhà cổ hơn 300 năm được xếp loại nhà loại I. Nhà gồm 7 gian, được gắn kết theo lối cổ truyền, hoàn toàn dùng mộng mà không cần đến chiếc đinh sắt nào...

Ông Hà Hữu Thể giữ gìn, gia cố căn nhà cổ như báu vật mà tổ tiên để lại. Ông chia sẻ rằng, ngôi nhà cổ này đã có 13 thế hệ sinh sống và hiện đang phát huy tốt giá trị cổ xưa của di sản và nuôi dạy các con cháu nên người từ ngôi nhà này. “Nhà có cổ thì người cũng phải giữ nếp. Mình giữ được cái nếp ông bà thì con cháu nó mới biết mà noi” - ông Thể tâm sự.

Ngôi nhà của ông Thể không chỉ là nơi ở, mà là chứng nhân của ký ức, là lớp học văn hóa sống động cho du khách. Mỗi khi có đoàn khách nước ngoài đến thăm, ông tự tay pha trà, kể về phong tục Việt, cách dựng ngôi nhà xưa, cách thờ cúng tổ tiên, cách giữ nền nếp trong gia đình. Ông Thể không dùng từ “bảo tồn” nhưng việc ông làm chính là bảo tồn sống - giữ gìn bản sắc Việt trong chính đời sống hằng ngày.

Nếu nếp nhà là cái gốc tinh thần, thì nghề truyền thống chính là biểu hiện cụ thể của nếp văn hóa Việt trong lao động. Những người con của làng gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) đã “giữ lửa” truyền thống và “thổi hồn” tinh hoa vào gốm thủ công nung củi ở làng nghề nổi danh Kinh Bắc có lịch sử gần 700 năm này.

Dạo quanh làng, ngoài những vật dụng thường thấy như vại, chum nước, gốm Phù Lãng còn có những sản phẩm khác để trang trí nội - ngoại thất. Sự khéo tay, tinh tế và tỉ mỉ của người thợ gốm đã tạo nên những bức tranh vô cùng sống động. Dòng tranh gốm được sáng tác với nhiều chủ đề đa dạng, mộc mạc, giản dị. Mỗi sản phẩm là một khuôn hình mộc mạc, bình dị như chính người dân làng gốm, gợi nhớ về nguồn cội, quê hương.

Ông Nguyễn Văn Hưng, một người con của làng Phù Lãng dù tuổi đã cao nhưng ngày ngày vẫn nhóm lò, nặn đất. Với ông, giữ nghề gốm cũng là giữ nếp nhà, vì “ông cha truyền lại cái nghề này không chỉ để kiếm sống, mà để dạy con cháu biết quý lao động, biết yêu cái đẹp của bàn tay”. Ông kể: “Ngày xưa, cha mẹ dạy con “Nhà có nghề như cây có rễ”. Rễ mà mất thì cây chết. Tôi giữ nghề là giữ rễ nhà”.

Theo Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam, mỗi năm có hơn 5 triệu lượt du khách quốc tế tham gia các hoạt động trải nghiệm tại làng nghề. Con số ấy cho thấy việc giữ nghề - giữ nếp không chỉ có ý nghĩa văn hóa, mà còn mang lại giá trị kinh tế, giúp người dân “sống được bằng văn hóa”.

Giữ lễ, giữ đạo - những giá trị không phai

Không chỉ những nghệ nhân, mà nhiều gia đình hiện đại cũng đang cố gắng khôi phục và giữ gìn nếp nhà truyền thống giữa đời sống đô thị. Trong dòng chảy hiện đại với xu hướng gia đình hạt nhân ngày càng phổ biến, việc duy trì mô hình tứ đại đồng đường - 4 thế hệ cùng chung sống hòa thuận dưới một mái nhà trở nên hiếm hoi.

Ở thôn An Cảnh (Hưng Yên), gia đình ông Ngô Đình Nghĩa là một trong những điển hình tiêu biểu vẫn giữ gìn được nếp nhà truyền thống, đầy yêu thương và hòa thuận. Hiện nay, gia đình ông Nghĩa có 10 thành viên thuộc 4 thế hệ cùng chung sống.

Người cao tuổi nhất trong nhà là cụ Ngô Đình Báu, thân sinh ông Nghĩa, năm nay đã 95 tuổi. Vợ chồng ông Nghĩa đều đã ở tuổi 70, sống cùng gia đình 2 người con trai và 4 cháu nội. Dù sống chung đông người, nhưng theo người dân trong thôn nhận xét, gia đình ông luôn đầm ấm, yên vui và đặc biệt gắn bó.

Cụ Báu, người cha, người ông, là “cây cao bóng cả” trong đại gia đình. Ở tuổi xưa này hiếm, cụ vẫn minh mẫn, hiền hậu và là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho con cháu. Mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều được các thành viên bàn bạc kỹ lưỡng, tham khảo ý kiến người lớn tuổi để vừa giữ lễ nghĩa, vừa lắng nghe những lời khuyên bảo.

Dù bận rộn, nhưng gia đình cụ Báu vẫn duy trì bữa cơm tối đủ mặt các thành viên. Cụ Báu chia sẻ: “Ăn cơm chung không chỉ để no, mà để trò chuyện, chia sẻ, để biết con cháu sống thế nào. Đó là giữ nếp nhà”.

Từ bữa cơm đến cách dạy con chào hỏi, cách tổ chức giỗ tổ, cách mừng tuổi ngày Tết, những chi tiết nhỏ ấy tưởng chừng bình thường nhưng chính là sợi chỉ kết nối truyền thống trong gia đình Việt. Người dân Việt Nam coi gia đình là “trường học đầu tiên về văn hóa và đạo đức”. Tuy nhiên, tỷ lệ gia đình duy trì sinh hoạt truyền thống (ăn cơm chung, giỗ tết, lễ nghi) đang giảm dần, nhất là ở thành thị. Chính vì vậy, những gia đình như cụ Báu như biểu tượng cho “những ngọn đèn không tắt”, giúp gìn giữ căn cốt văn hóa trong nhịp sống hiện đại.

“Nếp nhà” Việt Nam không thể tách khỏi “đạo” - đạo làm người, đạo hiếu, đạo nghĩa. Ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, những người cao tuổi vẫn là “giữ hồn” cho làng qua việc hướng dẫn lớp trẻ cúng tổ, rước thần, diễn chèo, hát quan họ, tế lễ đình làng.

Ông Đào Xuân Bỉ, Trưởng Ban Quản lý di tích đình làng Bái (Hưng Yên) là người đã trên 20 năm gắn bó với mọi công việc dưới mái đình làng. Chứng kiến sự đổi thay của quê hương, tấm lòng của những người dân chung tay giữ gìn mái đình cổ, ông Bỉ càng thêm xúc động khi những ngày hội làng, con em xa quê dù có phương trưởng đi bốn phương trời cũng luôn về tụ họp để chung tay gìn giữ “nếp làng”.

Ông chia sẻ: “Đối với mỗi người dân, đình làng được ví như tròng nóc của làng bởi mọi tinh hoa trong đời sống văn hóa tinh thần đều diễn ra ở nơi đây. Từ xưa tới nay, đình là nơi tổ chức các nghi thức tế lễ của địa phương, tri ân công lao to lớn của các bậc tiền nhân. Với không gian rộng, thoáng cùng ẩn chứa những lớp lang văn hóa sâu, dày, đình là nơi thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia vào hoạt động cộng đồng.

Ngôi đình làng còn là nơi lưu giữ phong tục tập quán truyền thống của làng từ lời ca, tiếng hát đến nền nếp học hành. Bởi vậy, cứ mỗi dịp đình làng có hội, người con của làng dù sinh sống tại địa phương hay xa quê, ở ngành nghề, lứa tuổi nào cũng đều chung tay góp sức”.

Trang nghiêm hoạt động tế lễ trong lễ hội truyền thống làng Bái. (Ảnh: Tú Anh)
Trang nghiêm hoạt động tế lễ trong lễ hội truyền thống làng Bái. (Ảnh: Tú Anh)

Ông Đào Xuân Bỉ cho biết: “Lễ hội truyền thống đình làng Bái có phần tế lễ dạy người dân nhớ ơn, biết trên dưới. Khi con cháu đứng trước bàn thờ, học được chữ “kính”, chữ “nhẫn”, chữ “hiếu”. Đó là nếp nhà”.

Tại làng chèo Khuốc (Thái Bình), Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Ro dù sức yếu vẫn mở lớp dạy hát chèo miễn phí. “Tôi chỉ sợ khi mình mất đi, không còn ai nhớ lời hát nữa. Nếp nhà Khuốc phải còn tiếng hát chèo”.

Ở Huế, nghệ nhân ẩm thực Hoàng Thị Như Huy lại gìn giữ nếp ăn cung đình, dạy con cháu cách nấu bữa cơm Huế đúng lễ nghi. Bà đã cho ra mắt tác phẩm “Nghệ thuật ẩm thực Huế” dày đến 464 trang, biên soạn công phu. Sách gồm ba phần: nghệ thuật ẩm thực Huế; cách nấu các món Huế; và phần cuối là những cảm xúc, hoài niệm của tác giả đối với những món ngon gia truyền Huế.

Riêng phần 2 (có tên Lời xưa mẹ dạy) trình bày cách nấu 180 món ăn cung đình và dân dã Huế được thể hiện thật chi tiết từ nguyên liệu, định lượng đến quy trình thực hiện. Hiện tại, bà cũng đang gấp rút hoàn thiện cuốn “Từ điển ẩm thực Huế” để xuất bản trong năm 2009, làm cơ sở để mọi người tiếp cận dễ dàng, đầy đủ hơn với văn hóa ẩm thực Huế.

Nghệ nhân ẩm thực Hoàng Thị Như Huy gìn giữ nếp ăn cung đình. 
(Ảnh: Diệu Thông)
Nghệ nhân ẩm thực Hoàng Thị Như Huy gìn giữ nếp ăn cung đình. (Ảnh: Diệu Thông)

Ở Tây Nguyên, Nghệ nhân Ưu tú - già làng K’Tiếu (Lâm Đồng) dành cả đời truyền dạy cồng chiêng, vì “tiếng chiêng là tiếng của nhà mình”.

Họ - từ cụ già miền Bắc đến nghệ nhân miền Trung, từ già làng Tây Nguyên đến người dân giữa phố thị đều đang làm cùng một việc: “giữ lửa” văn hóa dân tộc, Tất cả đang góp thành một dòng chảy âm thầm mà mạnh mẽ: dòng chảy gìn giữ nếp nhà của văn hóa Việt. Bởi khi còn nếp nhà, ta còn căn cốt; khi còn căn cốt, dân tộc mới có sức mạnh để đi tới tương lai. Và nhờ họ, những giá trị như hiếu kính, lễ nghĩa, nhân văn, đoàn kết - vốn là trụ cột của văn hóa Việt - vẫn tiếp tục chảy trong huyết mạch dân tộc.

Từ lễ hội đến nếp sống, đạo làm người - tôn trọng truyền thống, biết ơn tổ tiên - chính là phần sâu nhất của văn hóa Việt. Những người như: cụ Báu, ông Thể, ông Bỉ hay những người con xa quê vẫn giữ mâm cơm cúng Tết… chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
Bảo Châu