Tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật
(PLVN) - Chú trọng chất lượng và tiến độ của công tác góp ý kiến tham gia đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đây là những giải pháp thiết thực để xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, minh bạch, hiệu quả, từ đó góp phần xây dựng và hoàn thiện thể chế.
Công tác xây dựng pháp luật giữ vai trò then chốt trong hoạt động của Nhà nước, hướng tới hình thành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, chặt chẽ và toàn diện. Hệ thống đó không chỉ phản ánh khách quan thực tiễn đời sống, ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân dân, mà còn có khả năng huy động mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Khi được xây dựng đúng hướng, pháp luật sẽ trở thành công cụ hữu hiệu để điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý nhà nước, hoàn thiện thể chế và phòng ngừa lãng phí. Muốn đạt được mục tiêu đó, quá trình xây dựng pháp luật phải đặt nguyên tắc dân chủ lên hàng đầu.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” - nội dung này đã được khẳng định trong Hiến pháp. Từ khi thành lập nước cho đến nay, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Chính vì vậy tại Điều 28, Hiến pháp nêu rõ “công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội”, và “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội”.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, sự tham gia đóng góp ý kiến của các tầng lớp nhân dân chính là biểu hiện sinh động của việc người dân tham gia quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ. Do đó tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ nguyên tắc bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Theo đó người dân được tạo điều kiện tối đa để tham gia một cách thực chất và hiệu quả vào quá trình thảo luận, đóng góp ý kiến các dự thảo luật.
Đặc biệt, với những dự thảo liên quan trực tiếp tới nhóm đối tượng cụ thể, việc lắng nghe ý kiến của chính họ là yếu tố quyết định để văn bản “đúng” và “trúng” với yêu cầu thực tế. Hiện nay, người dân có thể tham gia đóng góp thông qua nhiều hình thức: ủy quyền cho tổ chức, cá nhân đại diện; góp ý trực tiếp tại hội nghị; gửi thư điện tử, ý kiến tới cơ quan báo chí; bỏ phiếu trực tuyến; hoặc tham gia khảo sát dư luận.
Một thí dụ tiêu biểu thời gian qua đó là sự tham gia đông đảo, tích cực của các tầng lớp nhân dân góp ý vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Việc tổ chức lấy ý kiến về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được triển khai nghiêm túc, công khai, dân chủ, đúng tiến độ, bám sát văn bản chỉ đạo của Quốc hội, Kế hoạch của Chính phủ cũng như các văn bản chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền. Số liệu tổng hợp của cơ quan chức năng cho thấy đã có 12.107.457 lượt ý kiến góp ý vào dự thảo Luật Đất đai; trong đó nhóm ý kiến tập hợp về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là 8.363.162 lượt ý kiến; tập hợp về các bộ, ngành, cơ quan Trung ương có 2.771 lượt ý kiến; các tổ chức và cá nhân góp ý qua cổng thông tin điện tử Chính phủ và qua website của Bộ Tài nguyên và Môi trường có 9.947 lượt ý kiến,… Các ý kiến đã thể hiện rõ trí tuệ, tâm huyết và nguyện vọng của nhân dân, tạo sự đồng thuận cao, giúp luật nhanh chóng phát huy hiệu quả sau khi ban hành.
Thời gian qua, công tác lấy ý kiến cũng có những đổi mới: tổ chức từ khâu xây dựng chính sách chứ không chờ đến khi có dự thảo; tăng cường tham vấn nhóm đối tượng chịu tác động; đa dạng hóa hình thức và cải thiện khâu xử lý, phản hồi thông tin. Tuy nhiên, vẫn tồn tại hạn chế như một số dự thảo hoàn thành vội để kịp tiến độ, chưa bảo đảm chất lượng; việc lấy ý kiến đôi khi còn hình thức, gợi ý chung chung, thiếu trọng tâm; thời gian lấy ý kiến quá ngắn dẫn đến kết quả thấp, gây lãng phí thời gian và nguồn lực.
Có thể thấy trong nhiều kỳ họp Quốc hội, người đứng đầu Quốc hội thường xuyên đề nghị lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các vị đại biểu Quốc hội trong xây dựng pháp luật, cần phải ưu tiên cao nhất cho chất lượng, không chạy theo số lượng, dẫn đến tình trạng “đến phút bù giờ vẫn phải bỏ lại”. Những thí dụ nêu trên phần nào cho thấy quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc bảo đảm chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó việc giữ vững nguyên tắc dân chủ là yêu cầu có tính bắt buộc.

Trong thời gian tới, việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân thông qua xây dựng pháp luật cần tiếp tục được tăng cường. Các cơ quan hữu quan phải chú trọng chất lượng và tiến độ lấy ý kiến, mở rộng hình thức tiếp nhận, ứng dụng công nghệ, chủ động tham vấn đối tượng chịu tác động, và thực sự cầu thị trong tiếp thu ý kiến. Đây là những giải pháp quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước bền vững.