Trách nhiệm hình sự đối với tội buôn bán hàng giả: Yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh mới

Thời gian qua, tình trạng hàng giả, hàng nhái từ sữa bột, mỹ phẩm đến thực phẩm chức năng bị phát hiện đã gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng và đe dọa trực tiếp sức khỏe người tiêu dùng. Các vụ án quy mô lớn cho thấy, cơ quan chức năng đã, đang và sẽ tiếp tục quyết liệt đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả để bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn đối với công tác quản lý và thực thi pháp luật trước tốc độ phát triển và sự tinh vi của tội phạm trên không gian mạng.

Kinh doanh hàng giả - Vấn đề “nóng” được dư luận quan tâm

Nền kinh tế thị trường mở đã tạo sự phát triển vượt bậc trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó, đây cũng là môi trường “màu mỡ” mà các tội phạm kinh tế nhắm vào. Trong đó, hoạt động sản xuất và buôn bán hàng giđang trở thành một trong những thách thức lớn, nhức nhối và gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, làm thất thu thuế của Nhà nước.

Theo số liệu của Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2025, các cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý gần 3.300 vụ sản xuất, kinh doanh hàng giả. Những con số này minh chứng cho sự bùng nổ của loại hình tội phạm này.

Thời gian qua, lực lượng chức năng đấu tranh quyết liệt và triệt phá nhiều vụ sản xuất, kinh doanh hàng giả. (Ảnh NVCC) 
Thời gian qua, lực lượng chức năng đấu tranh quyết liệt và triệt phá nhiều vụ sản xuất, kinh doanh hàng giả. (Ảnh NVCC) 

Điển hình là ván Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố liên quan đến sản xuất và phân phối sữa giả mang nhãn hiệu Hiup. Vụ án cho thấy mức độ liều lĩnh của các đối tượng khi nhắm vào mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp đến dinh dưỡng và sức khỏe, với quy mô sản xuất và phân phối lớn, gây tổn hại đến niềm tin của người tiêu dùng.

Đặc biệt, là sự dịch chuyển của tội phạm sang thương mại điện tử khi các đối tượng lợi dụng tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội, được đông đảo người tiêu dùng biết đến và tin cậy để buôn bán hàng giả tại nhiều địa phương gây ra nhiều khó khăn trong công tác truy vết và kiểm soát.

Gần đây, Công an TP. Hồ Chí Minh đã khởi tố Võ Thị Ngọc Ngân (còn được gọi là Ngân 98) vì hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả số lượng đặc biệt lớn. Theo thống kê, doanh thu bất chính từ hoạt động phạm tội này trong giai đoạn 2023–2024 đã lên tới hàng trăm tđồng. Vụ sản xuất và kinh doanh kẹo Kera là hàng giả bị phanh phui, nhiều cá nhân là những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội vướng vào vòng lao lý như: Quang Linh Vlogs, HH Thuỳ Tiên, Hằng Du mục. Đây là hồi chuông cảnh báo về việc tội phạm đang lợi dụng lòng tin của người tiêu dùng và biến môi trường mạng thành "mảnh đất vàng" để trục lợi bất chính.

Hàng giả tinh vi và phức tạp trên môi trường mạng

Từ những vụ việc trên cho thấy, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) tuy đã hoàn thiện hơn về tội buôn bán hàng giả nhưng đang cần tiếp tục có những chế tài cụ thể đối với môi trường kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT). Khi các quy định hiện hành chủ yếu điều chỉnh hành vi buôn bán truyền thống, trong khi thực tiễn lại phát sinh nhiều hình thức phạm tội mới trên môi trường không gian mạng.

Trong giao dịch truyền thống, chủ thể phạm tội thường phải hiện diện vật lý tại địa điểm kinh doanh cố định hoặc ít nhất để lại dấu vết định danh rõ ràng như giấy phép kinh doanh, địa chỉ cửa hàng, hóa đơn chứng từ giấy… Trong khi đó, trên không gian mạng, đối tượng phạm tội có thể lợi dụng các đặc tính kỹ thuật số để ẩn danh hoặc giả mạo thông tin cá nhân để thực hiện hành vi phạm tội.

Thđoạn sử dụng tài khoản ảo và thông tin định danh giả mạo (nick name, ảnh đại diện không phải người thật, số điện thoại ảo, email tạm, tài khoản ngân hàng đứng tên người khác hoặc tài khoản ví điện tử không yêu cầu xác thực hai lớp) khiến việc xác định chủ thể thực sự thực hiện hành vi gây ra nhiều khó khăn ở giai đoạn đầu điều tra cần có sự hợp tác chặt chẽ từ các nền tảng trung gian.

Bên cạnh đó, mô hình “giao hàng chéo vùng” kết hợp với dịch vụ logistics thứ ba (đơn vị giao nhận thuê ngoài) làm đứt gãy chuỗi hành vi trực tiếp giữa người bán – hàng gi– người mua. Hàng giả thường được lưu kho tại nhiều tỉnh/thành phố khác nhau, thậm chí ở nước ngoài, sau đó được điều phối qua nhiều khâu trung chuyển, khiến cơ quan điều tra không tháp dụng các biện pháp tố tụng truyền thống như khám xét địa điểm kinh doanh cố định hay tạm giữ tang vật ngay tại chỗ.

Ngoài ra, dòng tiền thu được từ hoạt động phạm tội thường được phân nhỏ, chuyển qua nhiều tầng ví điện tử, tài khoản ngân hàng ảo, tiền mã hóa hoặc thậm chí qua các tài khoản “rút hộ” của bên thứ ba gây ra sự khó khăn trong quá trình điều tra.

Những đặc trưng kỹ thuật và thđoạn nêu trên đã làm thay đổi bản chất khách thể của hành vi phạm tội: từ hành vi có địa điểm cố định, có thể kiểm soát trực tiếp sang hành vi phân tán, phi vật lý, mang tính xuyên biên giới và ẩn danh. Trong khi đó, các quy định hiện hành của BLHS vẫn chủ yếu được xây dựng trên cơ sở mô hình tội phạm truyền thống, chưa có điều khoản riêng hoặc cơ chế tố tụng đặc thù để xử lý tội phạm mạng, chưa quy định rõ trách nhiệm hợp tác cung cấp dữ liệu điện tử của các sàn thương mại điện tử, đơn vị vận chuyển và tổ chức thanh toán trung gian.

Chính “khoảng trống” pháp lý này đòi hỏi cần khẩn trương nghiên cứu, bổ sung các quy định chuyên biệt về tội buôn bán hàng giả trên môi trường thương mại điện tử, bao gồm việc xác định rõ cấu thành tội phạm trong không gian mạng, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trung gian và cơ chế thu thập, bảo quản, đánh giá chứng cứ điện tử trở thành yêu cầu cấp thiết, mang tính sống còn để bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và quyền lợi người tiêu dùng trong thời đại số.

Một số giải pháp từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện thể chế

Trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, mặc dù BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể về tội buôn bán hàng giả tại Điều 192 nhưng chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý thống nhất về tội danh này. Do đó, cần sớm xem xét việc xây dựng một khái niệm mang tính khái quát nhằm làm rõ bản chất pháp lý và dấu hiệu đặc trưng của tội phạm buôn bán hàng giả.

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã tiếp tục hoàn thiện các quy định về tội buôn bán hàng giả, với nhiều nội dung mới so với quy định về tội này trong các giai đoạn trước. Theo Điều 192, hành vi buôn bán hàng giđược quy định cụ thể, phân loại rõ ràng hơn theo từng dạng hàng giả (giả về chất lượng, công dụng, nhãn hiệu, xuất xứ) với các mức xử phạt phân hóa dựa trên những dấu hiệu định tội và định khung hình phạt rõ ràng như: giá trị số lượng hàng giả, số tiền thu lợi bất chính, thiệt hại về tài sản, thiệt hại cho sức khỏe hoặc tính mạng con người cũng như hậu quả đối với kinh tế - xã hội.

Điểm mới đáng chú ý là sự thay thế các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt còn mơ hồ, định tính như “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng việc định lượng cụ thể. Điều này giúp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ rõ ràng khi áp dụng, khắc phục tình trạng lúng túng, thiếu thống nhất trong xét xử giai đoạn trước.

Trong thực tiễn tư pháp Hình sự liên quan đến việc xét xử tội buôn bán hàng giả, không chỉ tồn tại những thách thức từ diễn biến phức tạp của hành vi phạm tội, mà còn gặp phải nhiều trở ngại và vướng mắc trong việc diễn giải cũng như áp dụng các quy định pháp luật. Có thể dẫn đến sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan tố tụng, nguyên nhân một phần là do các văn bản pháp luật quy định hoặc giải thích về tội này cần được quy định chi tiết và phù hợp hơn với thực tiễn.

Hàng giả ngày càng tinh vi và phức tạp trên môi trường mạng gây tác động và ảnh hưởng rộng đến xã hội. (Ảnh NVCC)
Hàng giả ngày càng tinh vi và phức tạp trên môi trường mạng gây tác động và ảnh hưởng rộng đến xã hội. (Ảnh NVCC)

Trước những bất cập đó, việc hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm này là hết sức cần thiết. Theo nhóm nghiên cứu, có thể hoàn thiện quy định của BLHS đối với tội buôn bán hàng giả về một số nội dung sau:

Thứ nhất, BLHS cần tách bạch giữa tội sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả do hai hành vi này có tính chất pháp lý và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác biệt rõ rệt: sản xuất hàng giả là hành vi nguồn, mang tính chủ động, thường có tổ chức và đầu tư lớn; buôn bán hàng giả chủ yếu là hành vi trung gian hoặc lưu thông cuối chuỗi, với quy mô và mức độ nguy hiểm thường thấp hơn. Việc quy định chung một điều luật làm mờ ranh giới bản chất giữa hai hành vi, gây khó khăn trong việc phân hóa trách nhiệm hình sự khi truy cứu và lượng hình.

Việc tách hai tội thành hai điều luật độc lập sẽ cho phép xây dựng các khung hình phạt riêng biệt, sát với mức độ nguy hiểm thực tế của từng hành vi (khung đối với sản xuất sẽ cao hơn và có tính răn đe mạnh hơn; khung đối với buôn bán sẽ linh hoạt hơn, có khoảng cách định khung rõ ràng giữa buôn bán truyền thống và buôn bán qua mạng). Điều này không chỉ bảo đảm nguyên tắc tương xứng giữa hành vi và hình phạt (Điều 31 Hiến pháp 2013, Điều 3 BLHS 2015) mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, từ đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán hàng giả trong bối cảnh thương mại điện tử bùng nổ hiện nay.

Ngoài ra, cũng cần bổ sung tình tiết tăng nặng đối với buôn bán hàng giả qua mạng, cần tạo tiền đề pháp lý để bổ sung tình tiết định khung tăng nặng riêng cho hành vi buôn bán hàng giả trên môi trường thương mại điện tử mà không làm ảnh hưởng đến cấu thành của tội sản xuất.

Thứ hai, phải hiểu rõ và áp dụng đúng các quy định về tội phạm này, cần tiếp tục hướng dẫn thực hiện các quy định của Bộ luật Hình sự về tội buôn bán hàng giả. Có nhiều thuật ngữ, khái niệm trong tội buôn bán bán hàng giả còn chung chung, chưa được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật như định nghĩa về “hàng giả”, “hàng giả tương đương với hàng thật”, “hàng hoá có cùng tính năng công dụng”. Trong đó, khó khăn nhất là việc xác định “giá trị hàng hoá tương đương hàng thật” để từ đó xác định có tội hay không có tội và đó cũng là cơ sở để xác định khung hình phạt.

Thứ ba, cần có sự giải thích về một số tính tiết định khung tăng nặng trong BLHS năm 2015. Ví dụ: Tình tiết “làm chết người” hoặc “làm chết 02 người trở lên” nghĩa là trường hợp hành vi buôn bán hàng giả của người phạm tội dẫn tới hậu quả là thiệt hại về tính mạng của người khác, đây là trường hợp hỗn hợp lỗi, theo đó, lỗi của người phạm tội đối với hành vi buôn bán hàng giả là lỗi cố ý, nhưng với hậu quả thiệt hại về tính mạng của người khác thì cần xem xét để xác định có phải là lỗi vô ý hay không.

Thứ tư, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ blockchain và tem điện tử chống hàng giả như một giải pháp hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa. Đây là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu quả phòng ngừa, phát hiện và xử lý hình sự đối với tội buôn bán hàng giả, phù hợp với yêu cầu hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

Thứ năm, tăng cường đào tạo cán bộ về kỹ năng điều tra số, giám định hàng giả công nghệ. Bên cạnh đó, cần tăng cường phối hợp giữa các lực lượng Công an – Quản lý thị trường – Doanh nghiệp.

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức người tiêu dùng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư giải pháp công nghệ bảo vệ sản phẩm cũng như xây dựng cơ chế tố giác, khen thưởng người phát hiện hàng giả.

Chu Thị Sao Mai - Trần Bảo Châu - Vũ Trà My