TS.Ngô Quỳnh An: “Luật Dân số cung cấp khung pháp lý tương đối toàn diện để ứng phó với già hóa dân số”
(PLM) - Ngày 10/12/2025, tại kỳ họp thức 10, Quốc hội khoá 15, với 448/450 đại biểu có mặt tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Dân số với 8 chương, 30 điều, và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026. TS.Ngô Quỳnh An - Phó Trưởng khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội nhận định, Luật Dân số cung cấp khung pháp lý tương đối toàn diện để ứng phó với già hóa dân số, những quy định mới và định hướng chính sách của Luật được kỳ vọng sẽ biến thách thức về già hóa dân số thành cơ hội, bảo đảm an sinh và phát huy vai trò của người cao tuổi trong thời gian tới. Bài viết dưới đây chia sẻ một số nhận định và quan điểm của TS.Ngô Quỳnh An về vấn đề này.
Việt Nam là trong một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, đây là thách thức không nhỏ đối với công tác dân số, gây áp lực lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước. Dự báo của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) mới đây cho thấy, dân số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059. Cùng với đó, thời kỳ cơ cấu dân số vàng sẽ khép lại trong tương lai không xa vào năm 2036, nhường chỗ cho thời kỳ dân số già và siêu già, thể hiện qua sự thu hẹp các nhóm tuổi trẻ và trung niên, cùng với sự gia tăng nhanh của nhóm dân số cao tuổi đã tạo ra áp lực lớn đòi hỏi những chính sách phù hợp, kịp thời để thích ứng và giải quyết trong bối cảnh và tình hình mới.

TS.Ngô Quỳnh An cho rằng, Luật Dân số cũng đã dựa trên khung chính sách tổng thể gồm 3 trụ cột thích ứng với già hóa dân số bao gồm: (1) Giảm nhẹ tốc độ già hóa dân số; (2) Tận dụng lợi thế cơ cấu dân số vàng để giảm thiểu “già hóa rủi ro” trong tương lai; (3) Bảo vệ, chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi. Qúa trình xây dựng Luật thể hiện sự chọn lọc cẩn trọng các kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương và một số nước phát triển, chủ yếu tập trung vào tính khả thi và tính bền vững. Trong đó, tiếp thu các bài học từ Nhật Bản, Hàn Quốc Và Thái Lan về “thích ứng với già hóa dân số” và có sự điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và nguồn lực của nước ta.
Cụ thể, mô hình Nhật Bản, “Già hóa dân số toàn diện dựa vào Nhà nước – cộng đồng – công nghệ” (Comprehensive Ageing Model), nhấn mạnh kéo dài tuổi thọ khỏe mạnh, duy trì khả năng tự lập, và giảm gánh nặng chăm sóc cho gia đình thông qua hệ thống an sinh và dịch vụ xã hội chuyên nghiệp. ). Mô hình này có ưu điểm ứng phó già hóa sớm, bài bản và toàn diện, giảm gánh nặng cho gia đình thông qua dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp, tích hợp hiệu quả giữa Nhà nước – cộng đồng – công nghệ, nhưng chi phí tài khóa lớn, phụ thuộc nhiều vào vai trò Nhà nước. Trong khi đó, mô hình Singapore sử dụng chính sách “Già hóa chủ động dựa vào thị trường và Nhà nước định hướng” (Active Ageing Model) để đối mặt với thách thức già hoá dân số và duy trì cơ cấu dân số vàng. Mô hình này có ưu điểm: giảm gánh nặng tài khóa cho Nhà nước, khai thác hiệu quả dân số vàng trước khi già hóa, linh hoạt, hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên cũng có hạn chế như áp lực lớn lên cá nhân, bất bình đẳng nếu người dân thu nhập thấp không tích lũy đủ.
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản và Singapore, Luật Dân số Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc các yếu tố phù hợp nhằm ứng phó với quá trình già hóa dân số trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế. Cụ thể, Luật quy định phát triển mạng lưới lão khoa và bảo hiểm chăm sóc dài hạn (Khoản 5, Điều 7), tiếp thu tinh thần của mô hình Nhật Bản trong việc xây dựng hệ thống chăm sóc chuyên nghiệp, góp phần kéo dài tuổi thọ khỏe mạnh, duy trì khả năng tự lập của người cao tuổi và giảm gánh nặng chăm sóc cho gia đình.
Bên cạnh đó, Luật tiếp cận theo vòng đời, nhấn mạnh chuẩn bị cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ (Điều 17), kết hợp với phát triển các hình thức chăm sóc đa dạng như chăm sóc tại nhà và chăm sóc dựa vào cộng đồng (Điều 18). Các quy định này vừa bảo đảm vai trò định hướng của Nhà nước, vừa tạo điều kiện phát huy vai trò chủ động của cá nhân và xã hội, tương đồng với cách tiếp cận “già hóa chủ động” của Singapore trong việc khuyến khích người dân duy trì năng lực lao động, tham gia kinh tế và thích ứng với già hóa dân số.
Tuy nhiên, Luật Dân số Việt Nam đã có những điều chỉnh quan trọng để phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội và văn hóa trong nước. Thay vì áp dụng các giải pháp công nghệ cao và chi phí lớn như robot chăm sóc của Nhật Bản, Luật ưu tiên các mô hình chăm sóc dựa vào cộng đồng với chi phí thấp và khả năng bao phủ rộng, phù hợp với điều kiện hạ tầng và nguồn lực hiện có. Việc mở rộng Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (ISHC) đáp ứng đặc điểm 67% người cao tuổi sinh sống ở khu vực nông thôn, đồng thời phù hợp với truyền thống gắn kết gia đình – cộng đồng của Việt Nam.
Trong bối cảnh nền kinh tế ở mức trung bình thấp, Luật khuyến khích hợp tác công – tư (PPP) nhằm huy động nguồn lực xã hội cho chăm sóc người cao tuổi, qua đó giảm áp lực lên ngân sách nhà nước. Đồng thời, việc lồng ghép các giá trị văn hóa truyền thống như trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ (Điều 16) góp phần củng cố vai trò chăm sóc của gia đình, tránh xu hướng cá nhân hóa quá mức trong chăm sóc người cao tuổi như ở một số quốc gia phát triển phương Tây..
Theo nhận định của TS. Ngô Quỳnh An, chúng ta vẫn đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, đây cũng là cơ hội để tích lũy vốn con người, nâng cao năng suất và chuẩn bị cho già hóa tích cực, nơi người cao tuổi duy trì sức khỏe và tham gia xã hội. Điều này cụ thể hóa trong Điều 12 (Điều chỉnh quy mô và cơ cấu dân số) và Điều 17 (Chủ động chuẩn bị cho tuổi già), Điều 20-22 (Nâng cao chất lượng dân số) của Luật Dân số, giúp chuyển đổi dân số già thành nguồn lực kinh tế, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội”. Để góp phần hiện thực hoá điều này, TS.Ngô Quỳnh An cho rằng, có thể triển khai và đẩy mạnh theo một số giải pháp khác.
Thứ nhất, đầu tư vào giáo dục và kỹ năng số như ban hành chương trình quốc gia về học tập suốt đời, tích hợp công nghệ số vào giáo dục từ cấp phổ thông, ưu tiên đào tạo trong lĩnh vực STEM và CNTT. Doanh nghiệp được ưu đãi tín dụng nếu đào tạo nhân viên cao tuổi (Điều 7, Khoản 10).
Thứ hai, phát triển “kinh tế bạc” và khởi nghiệp như xây dựng quỹ đầu tư quốc gia hỗ trợ "nền kinh tế bạc", khuyến khích người cao tuổi tham gia khởi nghiệp lồng ghép thích ứng già hóa dân số vào quy hoạch kinh tế-xã hội, tập trung vào các ngành như du lịch và chăm sóc sức khỏe dành cho người cao tuổi...
Thứ ba, giám sát và dự báo nhân khẩu học như sử dụng dữ liệu lớn và AI để dự báo cơ cấu dân số giúp điều chỉnh chính sách kịp thời, giảm tác động tiêu cực như giảm năng suất lao động.

Bên cạnh các giải pháp nêu trên, để dân số già không là gánh nặng, thì cần tập trung chăm sóc đa dạng và hòa nhập người cao tuổi, coi họ là nguồn lực xã hội. Về nội dung này, TS.Ngô Quỳnh An cũng đưa ra một số giải pháp chăm sóc và hoà nhập để người cao tuổi có thể phát huy được vai trò trong cộng đồng.
Trước tiên cần phát triển “Hệ thống chăm sóc đa dạng”, như ban hành nghị định quy định tiêu chuẩn chăm sóc, mở rộng mô hình ISHC, kết hợp y tế từ xa và IoT cho nhà thông minh. Ưu tiên xây dựng bệnh viện lão khoa ở vùng nông thôn, với ngân sách địa phương hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người cao tuổi chưa có thẻ.
Tiếp đến là “Hòa nhập xã hội và kinh tế”, cần xây dựng chính sách hỗ trợ việc làm linh hoạt, như chương trình cố vấn liên thế hệ và khởi nghiệp số. Khuyến khích doanh nghiệp ưu đãi sản phẩm dành cho người cao tuổi, đồng thời chống lạm dụng qua chiến dịch nâng cao nhận thức.
Và cũng cần có “Đào tạo nhân lực và tài chính bền vững” như triển khai chương trình đào tạo lão khoa, chăm sóc người cao tuổi cho cả nhân lực chăm sóc chuyên nghiệp và nhân lực chăm sóc trong hộ gia đình và cộng đồng Phát triển bảo hiểm chăm sóc dài hạn bắt buộc từ 40 tuổi, giảm chi phí y tế từ nguồn chi trả trực tiếp cá nhân.
Nêu quan điểm dưới góc độ quản lý và đóng góp trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, ông Phạm Vũ Hoàng – Phó Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế chia sẻ, nhìn chung quá trình xây dựng Luật Dân số của Việt Nam đã tiếp thu với cách tiếp cận khi coi già hóa dân số là xu thế tất yếu, cần chủ động thích ứng sớm, thông qua việc chủ động chuẩn bị cho tuổi già từ sớm và phát huy vai trò, kinh nghiệm của người cao tuổi, phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Sự điều chỉnh phù hợp là kết hợp chăm sóc người cao tuổi với truyền thống gia đình, cộng đồng của Việt Nam, đồng thời từng bước phát triển các mô hình dịch vụ, thị trường chăm sóc người cao tuổi phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội.

Luật cũng quy định phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi trên cơ sở phân tách nhóm chăm sóc chính thức và nhóm chăm sóc không chính thức, từ đó có cơ chế hỗ trợ, đào tạo kỹ năng chăm sóc người cao tuổi phù hợp với từng nhóm.
Việc Quốc hội thông qua Luật Dân số đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý nhằm định hướng chính sách dân số theo hướng phát triển bền vững. Luật không chỉ nhấn mạnh dân số là trung tâm, mục tiêu và động lực của phát triển, mà còn chuyển trọng tâm từ kế hoạch hóa gia đình truyền thống sang cách tiếp cận toàn diện hơn, tập trung vào dân số và phát triển. Điều này góp phần đảm bảo sự cân bằng giữa quy mô dân số, chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố kinh tế - xã hội, từ đó hỗ trợ mục tiêu phát triển quốc gia lâu dài.